Tào Tuyết Cần
Hồng Lâu Mộng
Lời giới thiệu
Trong lịch sử văn học Trung Quốc. Hồng Lâu Mộng có một vị  trí đặc biệt. Người Trung Hoa say mê đọc nó, bình luận về nó(1), sáng  tác về nó đến nỗi nói: “Khai đàm bất thuyết Hồng Lâu Mộng, Độc tận thi  thư diệc uổng nhiên!” (Mở miệng mà không nói Hồng Lâu Mộng thì đọc hết  cả thi thư cũng vô ích!). Có một ngành học chuyên nghiên cứu về Hồng Lâu  Mộng, gọi là Hồng học; gần đây nhất vẫn thấy Trung Quốc in chuyên san  “Hồng Lâu Mộng nghiên cứu”. - Có lẽ trên thế giới chỉ có Shakespeare là  có một vinh dự lớn lao như thế, vì có “Shakespeare học”. Cái gì làm  người Trung Quốc say Hồng lâu mộng “như điếu đổ” vậy? Trước hết, đó là  do tác phẩm đáp ứng những nhu cầu sâu xa của thời đại. Thời nhà Thanh,  dưới thời các hoàng đế Ung Chính, Càn Long (1723 - 1795) là thời kinh tế  phồn vinh, chẳng những công nghiệp, thủ công nghiệp, mà cả khai thác  mỏ, thương nghiệp...cũng phát triển mạnh mẽ. Các thành thị lớn như Nam  Kinh, Dương Châu, Võ Xương, Nhạc Châu... buôn bán, sản xuất sầm uất là  những đô thị lớn. Chỉ kể một thị trấn như Thanh Giang bên bờ Vận Hà thôi  mà thời đó đã có hơn nửa triệu dân! Nền kinh tế tự phát tư bản chủ  nghĩa đó trong lòng xã hội phong kiến chuyên chế mọt ruỗng và đang trên  đà tan rã, đã đẻ ra một tầng lớp người thành thị, những người này có  những nhu cầu thẩm mỹ mới. Tây Sương Ký, Mẫu đơn đình, Cổ kim tiểu  thuyết, Liêu Trai... là những tác phẩm tả tình yêu, những số phận, những  buồn vui cá nhân..., chính là sự “thăng hoa” của cuộc sống đã bắt đầu  khác trước về chất của người thành thị. Hồng lâu mộng là sự thể hiện  những tư tưởng của thời đại: tinh thần dân chủ, tinh thần phê phán đời  sống xã hội phong kiến mục nát, phê phán những giáo điều truyền thống đã  ăn sâu bén rễ hàng ngàn năm, đòi tự do yêu đương, giải phóng cá tính,  đòi tự do bình đẳng, khát khao một lý tưởng cho cuộc sống...Tất cả những  cái đó có những mặt kế thừa tư tưởng dân chủ thời Minh và đầu Thanh,  nhưng nó chính là sản phẩm của ý thức tư tưởng thị dân đương thời. Giữa  những khát vọng sâu xa ấy của con người thời đại và sự biểu hiện nó ra  một cách nghệ thuật, đã có một cuộc hẹn hò tuyệt diệu qua Hồng Lâu Mộng.  
o0o 
Tác giả chính của Hồng Lâu  Mộng, Tào Tuyết Cần 1716(?) - 1763(?) giống như phần lớn các nhà văn lớn  Trung Hoa trong lịch sử, viết văn là để giải tỏa nỗi niềm “cô phẫn”, là  để ký thác những suy tư về con người và thời đại. Ông vốn sinh ra trong  một gia đình đại quý tộc. Từ đời tằng tổ đến đời cha, thay nhau tập  chức “Giang ninh chức tạo” là một chức quan to thu thuế. Năm lần vua  Khang Hy tuần du phương Nam thì bốn lần ở lại nhà họ Tào, đủ biết sự  sủng ái của nhà vua với gia đình ông ra sao ! Và cũng có thể đoán biết  cuộc sống trong phú Giang hồi đó xa hoa, vương giá như thế nào ! Trong  Hồng Lâu Mộng, Nguyên phi về thăm nhà có một buổi mà nhái xây cất bao  nhiêu đình tạ trong vườn Đại quan, nữa là hoàng đế tuần du ngự đến  nhà.Nhà ông chăng những là hào môn vọng tộc hiển hách như thế, lại còn  có truyền thống văn chương. Ông nội ông, Tào Dần, đứng in bộ "Toàn Đường  Thi trứ danh, và là một nhà thơ, tác giả "Luyện đình thi sao”. Nhưng  cuộc sống vàng son đó của gia đình ông đã trôi qua, đã tan vỡ. Lúc Tào  Tuyết Cần lớn lên thì tất cả đã ở đằng sau rồi: cha bị khép tội, bị cách  chức, bị tịch biên gia sán, nhà họ Tào suy sụp và ông phải về sống ờ  vùng ngoại ô phía tây thành Bắc Kinh trong cảnh: “cả nhà rau cháo, ruợu  thường mua chịu”. Hồng Lâu Mộng do đó có thể xem là phản quang những hồi  ức của Tào Tuyết Cần về cuộc sống quý tộc đã tan vỡ đó. Một mặt, đó là  sự nhớ tiếc khôn nguôi những huy hoàng của vàng son lộng lẫy, cảm thấy  tất cả nhuốm màu thê lương, hư vô, tất cả đều xê dịch về phía bế tắc,  hủy diệt, tất cả đều đáng ân hận, và chỉ có thể cứu chuộc bằng Hư Vô,  bằng siêu hình, bằng tôn giáo! Nhưng mặt khác, từ trong cuộc sống nghèo  khó hôm nay, quay đầu nhìn lại thì cái khoảng cách lớn lao đó làm cho  ông thấy được rõ hơn, khách quan hơn, bình tĩnh hơn những gì ông đã  thấy, đã nếm trái về cuộc sống thối nát của giai cấp quý tộc và sự miêu  tả khách quan "những quan hệ hiện thực” này làm ông trở thành một nhà  hiện thực. Chí ít thì về mặt đó, ông đã lay chuyến được "niềm lạc quan  về cái trật tự hiện tồn", và như thế, ông là sản phẩm của một thời đại,  đồng thời đã nhìn xa hơn thời đại. Tào Tuyết Cần đề 10 năng dế viết 80  hồi đầu, Hồng Lâu Mộng: “Xem ra chữ toàn bằng huyết, cay đắng mười năm  khéo lạ lùng”; năm lần sửa chửa, trong cảnh cùng khốn, ốm đau không tiền  chạy thuốc, trong cánh đứa con yếu của ông chết. Và ông đã lìa đời  trong cảnh đau khố dồn dập đó. Bình sinh, ông vẽ giỏi, hay thơ, thích  rượu, cuồng phong. Người ta chỉ biết được về ông có thế thôi! Hai mươi  tám năm sau khi ông mất, Cao Ngạc viết tiếp 40 hồi, đến khoáng 1792 -  1793 thì Hồng Lâu Mộng được in và lưu truyền khắp trung Quốc. Những hồi  Cao Ngạc viết tiếp thì không thể hay bằng những hồi Tào Tuyết Cần viết,  nhưng cũng phải nói là Cao Ngạc đã sống với tác phẩm và tri âm tác giả,  nên đã hoàn thành dự định của Tào Tuyết Cần và nối tiếp bút lực của  người đi trước, hoàn thành và bộc lộ trọn vẹn tư tưởng của tác phẩm,  khiến cho tác phẩm vẫn giữ được vẻ hấp dẫn mãnh liệt.(2) 
BI KỊCH TÌNH YÊU VÀ Ý NGHĨA TÌNH YÊU TRONG HỒNG LÂU MỘNG 
Câu  chuyện tình giữa Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc xuyên suốt qua toàn bộ  tác phẩm, làm nên chủ đề chính của cuốn tiểu thuyết vĩ đại này. Giả Bảo  Ngọc và Lâm Đại Ngọc, hai anh em cô cậu ruột, cùng ở chung một nhà từ  bé; lớn lên, vì Bảo Ngọc được bà nội nuông chiều, riêng cho ở trong vườn  Đại quan cùng với đám “quần thoa”, nên anh ta và Đại Ngọc gần gũi nhau.  Nhưng đây không phải là câu chuyện “lửa gần rơm...”. Đây cũng không  phải chỉ là câu chuyện “tài tử giai nhân là nợ sẵn”. Tình yêu của họ còn  có nguyên cớ sâu xa hơn nhiều; họ nói như Saint Exupéry: “Yêu nhau  không phải là nhìn nhau mà là cùng nhìn về một hướng”, nghĩa là họ “đồng  điệu”, “tri âm” lẫn nhau trên những vấn đề có ý nghĩa cuộc sống. Nói  cho đúng, lúc đầu Bảo Ngọc cũng còn có chút phân vân. Anh ta sống giữa  đám a hoàn nhan sắc, những Tập nhân, Tình văn... những người này là  những phụ nữ xuất thân từ tầng lớp dưới, được họ Giả mua về hầu hạ,  nhưng đó là những người có tình, có phẩm chất tốt đẹp. Họ chính là mót  bức màn ngăn bụi trần của phủ Vinh quốc đầy dẫy những hạng đàn ông ô  trọc. Bảo Ngọc cảm nhận được thực chất vị tha, quên mình đầy dịu dàng  của họ, anh ta như một người được vây bọc bởi sự tận tụy, thương yêu...  của những nữ tỳ - đồng thời cũng là “nữ thần” này. Do đó không lạ gì mà  Bảo Ngọc đã nêu lên cái “nguyên lý nữ tính” rất xa lạ với tư tưởng  “trọng nam khinh nữ” của xã hội phong kiến: “Xương thịt con gái là nước  kết thành. Tôi trông thấy con gái thì người tôi nhẹ nhàng, khoan khoái,  thấy con trai thì như bị phải hơi dơ bấn”. Trong phủ Giả lúc đó còn có  cô em họ Tiết Bảo Thoa ở nhờ. Bảo Thoa đẹp, đức hạnh, nết na theo đúng  nếp nhà phong kiến. Bảo Ngọc cũng mến Bảo Thoa, gần nàng, anh chàng đôi  lúc cũng thấy xiêu xiêu, quả có như lời Lâm Đại Ngọc “gần cô chị thì  quên khuấy cô em”! Nhưng rồi dần dần, Bảo Ngọc chỉ yêu có Đại Ngọc thôi.  Đại Ngọc kiều diễm, yếu đuối, là một tâm hồn dễ cám xúc, một tâm hồn  nhạy cảm và phong phú - đó là một tâm hồn thơ đích thực; và đó là điều  mà họ gặp nhau. Quan trọng hơn, là trong khi cả nhà chờ mong Bảo Ngọc  học giỏi thi đỗ, làm quan giữ nếp nhà…, thì Bảo Ngọc lại chán ngấy cái  con đường mòn nhàm chán đó, và người hiểu anh duy nhất là Đại Ngọc. Bảo  Ngọc, chàng trai được nhốt trong cái lồng kính quý tộc đầy cao lương gấm  vóc, anh ta được người ta dùng gia giáo, thi giáo, lễ pháp... để ràng  buộc theo con đuờng vạch sẵn. Giả Bảo Ngọc bị mất tự do, và anh ta cảm  thấy sâu sắc điều đó, nên lúc nào anh ta cũng vùng vẫy tìm lối thoát,  tìm cách phán kháng lại. Như một con chim khao khát trời xanh rộng lớn  bị nhốt vào cái lồng vàng chật hẹp, Giả Bảo Ngọc sống không yên ổn. Anh  lục lọi sách vở, đi vào triết học cổ, đi vào “tham thiền ngộ đạo” …nhưng  những cái đó không cung cấp được cho anh một vũ khí tư tưởng nào để tự  giải phóng! Mà thực ra, thì anh cũng lẩn quẩn, loanh quanh; anh ta là  một sản phẩm đầy mâu thuẫn của một xã hội cũng đang chứa đầy mâu thuẫn,  một xã hội đang tìm lối ra nhưng không có lối ra. Rốt cuộc, anh ta tỏ  thái độ hoài nghi những gì “thánh hiền” đã viết, đã soạn, cho đó là  “soạn bậy”, là “bịa”, là “nói tầm bậy”. Đối với đạo đức phong kiến mà  cái cao nhất là “tôi trung con hiếu”, “sát thân thành nhân”, anh ta dám  nói những lời “cách mệnh”: “Nhũng bọn mày râu dơ bẩn, chỉ biết “quan văn  chết vì lời can gián, quan võ chết vì đánh giặc”, là hai cái chết của  kẻ đại trượng phu, thành ra chỉ làm rối lên, nào có biết đâu có vua ngu  mới có bầy tôi chết vì lời can gián; chỉ lo ra công đánh giặc, liều mình  hy sinh, tương lai sẽ bỏ nước cho ai. Thật là lời lẽ của ké “đại nghịch  vô đạo”. Tất nhiên, nói cho công bằng, đó là một đôi ý nghĩ đột xuất  của anh chàng này, còn như bình thường, anh ta vẫn phải nép mình trong  lồng cũi tuân phục “di huấn thánh nhân”. Trong hoàn cánh đó, Lâm Đại  Ngọc đã đến. Họ đã đến với nhau không dễ dàng. Đại Ngọc vì gia cảnh đến ở  nhờ trong phủ họ Giả, tuy là cháu ngoại đấy, nhưng vẫn bị Giá mẫu xem  là “người ngoài”: “nữ nhân ngoại tộc”. Cái mặc cảm “ăn bám ở nhờ” luôn  luôn làm nàng đau khổ - nàng vốn là người nhiều tự ái là người nhạy cảm,  khó hòa hợp với chung quanh và do đó cô đơn. Tình cảnh của nàng còn bi  đát hơn Bảo Ngọc nhiều, vì nàng là con gái, là phận ở nhờ, mà trong cái  xã hội ghê khiếp ấy, thì nàng chẳng là cái gì cả, nàng chỉ là một cánh  bèo dạt, một cánh hoa rơi! Cho nên nàng thương hoa, khóc hoa, chôn hoa,  cho nên nàng luôn buồn thương vô hạn. Tâm hồn nàng như một sợi tơ đàn  mảnh mai, bất kể một giọt mưa thu hay tơ liễu bay đều âm vang một điệu  buồn đứt ruột! Cái yếu đuối, cái “đa sầu đa cảm” của nàng cũng là một  nét tính cách riêng nhưng xuất phát từ những điều kiện của thời đại. Giả  Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc đã đến với nhau như thế và đã đến với nhau  rồi, hiểu lòng nhau rồi, họ vẫn sống những ngày tháng không yên. Trong  tình yêu này, họ chưa được hưởng bao nhiêu hạnh phúc; chưa nếm mật ngọt  tình yêu, họ đã linh cảm thấy mật đắng của đời! Họ luôn luôn bị bủa vây  trong trùng điệp của mạng lưới phong kiến. Họ không phải là người quyết  định được tình yêu của mình. Cuối cùng, Giả mẫu và bọn phu nhân trong  phu họ Giả đã quyết định! Họ đã chọn Tiết Bảo Thoa cho Bảo Ngọc. Và một  khi đã chọn, họ đã nhẫn tâm theo kế “đánh tráo” của Phượng Thư. Bảo Ngọc  cứ yên trí là “cưới em Lâm”, hóa ra lúc giở khăn che mặt, lại là Bảo  Thoa; Bảo Ngọc lúc bấy giờ mới bật ngửa, mà Lâm Đại Ngọc thì sau cơn ốm  nặng, đã chết trong niềm đau đớn, oán hận bằng đốt thơ, đốt khăn tặng  trong lúc cả nhà mừng đám cuởí của người mình yêu! Kết thúc tấn bi kịch  này, Bảo Ngọc trốn nhà đi tu; và Bảo Thoa làm một người góa phụ trẻ đau  khổ.
THI PHÁP NHÂN VẬT HỒNG LÂU MỘNG 
Hồng  Lâu Mộng không những đã đưa lại một nội dung mới mang ý nghĩa thời đại;  nó còn làm được một việc vĩ đại nữa là đổi mới thi pháp tiểu thuyết  Trung Quốc. Lỗ Tấn nói: “Từ khi Hồng Lâu Mộng ra đời, tư tưởng và cách  viết truyền thống đã bị phá vỡ”. Tiểu thuyết Trung Quốc trước đây, chủ  yếu là tiểu thuyết chương hồi như Tam quốc, Thủy hử, Tây du. .. thiên về  mô tả hành động, miêu tả hoạt động bên ngoài và lời nói của nhân vật.  Con người trong những tiểu thuyết đó, sản phẩm của một nền kinh tế nông  nghiệp mang tính chất phương thức sản xuất châu á, có bề giản đơn, nhất  quán trong một tính cách, rạch ròi trung, nịnh đôi đường. Những truyện  ngắn “truyền kỳ”, những truyện ngắn trong Liêu Trai đã bắt đầu thấm đẫm  màu sắc con người thị dân với những khát vọng nồng nhiệt hơn, phức tạp  hơn nhưng vẫn chứa có một thi pháp tiểu thuyết thực sự phản ánh một cách  nhìn mới về con người. Hồng Lâu Mộng đã làm được việc đó. Dĩ nhiên là  trong những hạn chế gay gắt của thời đại. Dù cho có những nhân tố tư bản  chủ nghĩa, nhân tố kinh tề hàng hóa, thị trường, thành phố, thị dân...  xã hội Trung Quốc vẫn là xã hội phong kiến, và cái con người “mới” mà  người ta chờ đợi đó đã xuất hiện chưa hoàn chỉnh; thi pháp tiểu thuyết  trong Hồng Lâu Mộng đã mang một số nhân tố mới của tiểu thuyết cận đại  phương Tây, nhưng nó không thể đi xa hơn nũa. Nó vẫn còn bị giam mình  trong cái khung tiểu thuyết chương hồi truyền thống, lấy “kể việc” làm  phương tiện chủ yếu khám phá của con người. Nhưng, xét cho kỹ thì phải  ghi nhận những yếu tố mới ở Hồng Lâu Mộng là rất có ý nghĩa. Trước hết,  đó là cách nhìn con người trong sự phát triển đầy mâu thuẫn, sự phát  triển biện chứng, có chiều sâu đầy kịch tính. Số phận và tính cách của  Bảo Ngọc đã được tác giả miêu tả không đơn giản. Đó là mâu thuẫn gĩưa  khát vọng tự do và sự ràng buộc nặng nề của gia đình và xã hội phong  kiến. Đó là tình yêu chân thành và quý báu như chính sinh mệnh của anh  ta và lạ thay, anh ta hầu như chẳng làm được gì, chẳng chiến đấu dũng  manh gì để đoạt lấy hạnh phúc! Mọi việc gần như đã phó mặc! Trước khi  chết, Lâm Đại Ngọc oán giận, đau buồn đốt khăn tặng, đốt tập thơ...,  không phải là không có lý! Anh ta chưa bao giờ xứng đáng là một trang  “tu mi nam tử” có lý tưởng, kiên định! Vấp phải những mâu thuẫn nghiệt  ngã của thời đại, anh ta sinh ra đau thần kinh, mắc chứng “ngây”, cứ  cười hì hì suốt ngày. Điều đó càng đẩy sâu anh ta vào bi kịch. Cuối cùng  giải pháp “đi tu” - phản ánh sự từ chối, sự phản kháng dầu yếu ớt - đã  được anh ta chọn lựa. Đi thi và thi đỗ cao để an ủi gia dình, rồi bó  trốn đi tu, Bảo Ngọc đã đi hết sự phát triển tính cách một cách hợp lý  và quả là qua số phận anh ta, như một số nhà nghiên cứu nhận định, có sự  gởi gắm, có sự thể hiện một phần nào bản thân tác giả. Đó đúng là một  số phận tiểu thuyết theo ý nghĩa hiện đại của từ này. Lâm Đại Ngọc là  một tính cách thú vị khác. Nàng yêu Bảo Ngọc, nhưng do thân phận của  nàng, mỗi khi Bảo Ngọc ngỏ lời là nàng lại giận hờn, buồn tủi, làm ra vẻ  cự tuyệt... “Bảo Ngọc cười nói: - Tôi là người nhiều sầu, nhiều bệnh,  cô là trang nghiêng nước nghiêng thành.(3) Đại Ngọc nghe thấy câu ấy,  mặt và tai đỏ bừng lên, lập tức dựng ngược lông mày, như cau lại mà  không phải là cau, trố hai con mắt, như trợn mà không phải trợn. Má đào  nổi giận, mặt phấn ngậm hờn, trỏ vào mặt Bảo Ngọc: - Anh nói bậy, muốn  chết đấy! Dám đem nhũng lời lẳng lơ suồng sã lăng nhăng để khinh nhờn  tôi! Tôi về mách cậu mợ đấy”. (tập I) Điều đó làm cho nàng trở nên đáng  yêu và tội nghiệp, làm cho nàng trở nên nhiều nữ tính hơn. Không một nét  giả dối, nàng là một nhân vật đã hiện ra với chiều sâu tâm lý đa dạng,  được bộc lộ qua tình yêu, qua những quan hệ khác. Phút cuối cùng nàng  nghe nói Bảo Ngọc sắp lấy vợ, và người được chọn sẽ là người trong phủ,  nàng chắc mẫm người đó sẽ là mình, chứa chan hy vọng, và từ đau buồn  tuyệt vọng, trong ốm đau, nàng trở lại sống linh hoạt, tươi đẹp... Ai  hay đó là phút nàng ở gần sự kết thúc nhất. Những cảnh như vậy làm cho  nhân vật thực, gần gũi, phong phú, hấp dẫn.... và về mặt soi rọi tâm lý  nhân vật, đã đạt đến trình độ của nhân vật tiểu thuyết hiện đại. Hồng  Lâu Mộng có tất cá 235 nhân vật đàn ông, 213 nhân vật dàn bà (một khối  lượng nhân vật khổng lồ! – trong Chiến tranh và hòa bình có chừng 500  nhân vật). Làm chủ chừng ấy nhân vật, miêu tả, cá tính hóa họ một cách  có hiệu quả là một sáng tạo phi thường. Trong số đó, nổi bật lên sự mô  tả và xây dựng nhân vật Tiết Bảo Thoa. Tiết Bảo Thoa là một tính cách  gần như đối nghịch với Lâm Đại Ngọc, Giả Bảo Ngọc; chính những nhân vật  trong Hồng Lâu Mộng đã phát triển trong sự đối nghịch như vậy, làm cho  cuốn tiểu thuyết có nhiều gương mặt, nhiều hợp âm. Tiết Bảo Thoa là một  nhân vật phụ nữ lý tính. Nàng còn ít tuổi mà đầy bản lĩnh, ở nàng tất cả  đều đúng mực, hợp lý, lô-gích, nàng là hiện thân của nguyên lý đạo đức  phong kiến. Bao giờ nàng cũng là một người con gái sống cho gia đình,  sống cho ý định người khác - và ý định đó luôn được nàng chấp nhận vì đó  cũng chính là của nàng. Sự hòa hợp giữa nàng và gia pháp phong kiến là  điều hoàn toàn tự nguyện. Nàng là người có học, xem nhiều sách, biết làm  thơ, nhưng hãy nghe nàng tâm sự (cũng là răn đe Đại Ngọc): “Bọn con gái  chúng ta không biết chữ càng tốt... Ngay đến cả việc làm thơ, viết chữ  đã không phải là phận sự chị em mình, mà cũng không phải phận sự của bọn  con trai nữa. Người con trai đọc sách nhiều phải hiểu nghĩa lý để ra  giúp dân trị nước mới đúng...”(tập III). Với Bảo Ngọc, một người không  yêu nàng, nhưng nàng theo sự sắp đặt của bề trên, lấy Bảo Ngọc không một  chút tự ái; nàng làm bổn phận của người vợ, khuyên giải chồng, “lý sự”  với chồng: “... chứ bây giờ gặp đến vua thánh, nhà ta mấy đời đội ơn  triều đình, cha ông được hưởng biết bao sung sướng...”(tập IV). Nếu nói  “bản chất” và “bản lĩnh” giai cấp thì quả nàng là hiện thân của giai  cấp. Nàng có ác không? Có. Khi con hầu Kim Xuyến nhảy xuống giếng tự tử,  Vương phu nhân cảm thấy lương tâm cắn rứt, nhưng nàng thì không, nàng  tươi cười, an ủi đổ lỗi cho Kim Xuyến và nói: “Dì cũng chẳng nên lo lắng  buồn bã làm gì, chỉ cần cho vài lạng bạc làm ma cho nó là trọn tình chủ  tớ rồi”. Nàng có giả dối không? Có. Nàng đã bày kế “ve sầu lột xác” để  đánh lừa bọn con hầu, tránh điều bất lợi cho mình. Bảo Thoa lúc nào cũng  tỉnh táo, cũng lắm mẹo! Nhưng nàng có đáng thương không? Nàng ít nhiều  cũng yêu Giả Bảo Ngọc mà tự kiềm chế, và cuối cùng, với tất cả sức lực  và nghị lực, với tất cả sự chân tình, nàng muốn có hạnh phúc trong cuộc  sống phong kiến với Bảo Ngọc, nhưng rốt cuộc nàng cũng trở thành một  nhân vật bi kịch. Bi kịch của nàng là bi kịch của một người trung thành  với đạo đức phong kiến. Gần với tính cách của Tiết Bảo Thoa là Vương Hy  Phượng. Đó cũng là một nhân vật nữ hết sức đặc sắc nữa. Những nhân vật  như thế làm chúng ta nhớ nhiều đến Hoạn Thư của Nguyễn Du. Đó là sự miêu  tả trung thành với bản chất củaa hiện thực, bản chất của những mối quan  hệ phong kiến, đồng thời nó là một sự cá tính hóa hết sức sâu sắc.  Ngoài ra con biết bao nhiêu nhân vật đáng lưu ý nữa trong cái thế giới  bao la của Hồng Lâu Mộng. Dường như đó là cả một nhân loại: trong đó có  hàng trăm số phận, và mỗi số phận đưa đến cho chúng ta một mảnh đời, một  suy nghĩ về nhân thế. Nhà lý luận tiểu thuyết nổi tiếng Bakhtin có nói  rằng nhân vật tiểu thuyết phải có phần “dư thừa nhân tính”. Có nghĩa là  nhân vật, ngoài vai trò xã hội (đẳng cấp, nghề nghiệp) phải có cái phần  dư thừa nhân tính, cái phần nhu cầu nhân tính, cái phần cá tính tự do mà  tấm áo xã hội không chứa đựng hết. Nhân vật của Hồng Lâu Mộng vừa là  giai cấp xã hội vừa là những nhân vật mang tính người, tính toàn nhân  loại, ở trong họ có cái phần “người” và những nhân vật như vậy bao giờ  cũng là một phát hiện, có sức hấp dẫn rất mạnh. * Hồng Lâu Mộng là cả  một thế giới. Thông qua cuộc sống từ thịnh đến suy của một gia đình quý  tộc, tác giả đã làm hiển hiện sự băng hoại của xã hội phong kiến, của  nhân tính phong kiến, đã cho ta thấy một xã hội như thế là không phương  cứu chữa! Không phải chỉ vì bọn người ấy sống trên áp bức và bóc lột địa  tô, mà cái chính là cuộc sống trống rỗng của bọn họ; ngày và đêm trong  cái phủ họ Giả ấy chỉ toàn là những chuyện giành giật, lừa gạt, dâm dật,  tự tử, tội ác... Một vài khuôn mặt lương thiện - trong đó khá nhiều là  thuộc tầng lớp dưới, như già Lưu, như Tập Nhân . . . không cứu nỗi sự  sụp đỗ tất yếu của nó. Hồng Lâu Mộng đã đưa đến cho người đọc những hiểu  biết sâu xa về xã hội và về con người với một cách viết chân thực, giản  dị mà bao gồm nhiều bút pháp lớn kim cổ. Nó là một cuốn bách khoa sinh  động về xã hội Trung Quốc thời xưa. Về mặt thi pháp nghệ thuật, thì đó  là một bước tiến mới trong nghệ thuật tiểu thuyết của thế giới. Hồng Lâu  Mộng xứng đáng đứng ngang với các kiệt tác của nhân loại. 
25- 10 - 1988 
Mai Quốc Liên. 
------------------------------------------------------ 
(1). Theo thống kê có đến 900 loại. 
(2).  Cao Ngạc (? - ?) tự Lan Thự, tác giả 40 hồi sau Hồng Lâu Mộng và Lan  Thu thi sao, Lan Thự văn tồn, Nghiễn hương từ... tự Vân Sĩ, biệt hiệu  Hồng Lâu ngoại sĩ (Hồng Lâu Mộng vốn tên Thạch đầu ký. Có lẽ Cao Ngạc là  người đặt tên nó là Hồng Lâu Mộng). Làm quan dưới triều Kiền Long, Gia  Khánh, trải các chức Nội các thị tộc, Hình khoa cấp sự trung, Nhập tịch  Mãn Thanh (Kỳ quán “nhương hoàng” - màu vàng pha). 
(3). Dùng chữ trong Tây sương ký. 
 
Tài liệu tham khảo chính: 
-  Lịch Sử Văn học Trung Quốc (Nguyên - Minh - Thanh). Sở nghiên cứu Văn  học thuộc Viện Khoa Học Trung Quốc, Bắc Kinh, 1962. Bản dịch Nhà xuất  bản Văn học, Hà Nội, 1964. 
- Bùi Kỷ; Lời giới thiệu, Hồng lâu mộng tập 1. Nhà xuất bản Văn hóa. Hà Nội, 1962. 
- Tào Tuyết Cần dữ Hồng lâu mộng. Hồng lâu mộng, quyển thượng. Thế giới thư cục, Singapore, 1973.